Trong xuất khẩu văn hóa, dù đã ít nhiều khai thác được những tiềm năng, thế mạnh nhưng cũng phải nhìn nhận, Việt Nam vẫn đang phía sau trong hành trình này. Nhìn lại chặng đường vừa qua, chúng ta chỉ mới thành công bước đầu. Để xuất khẩu văn hóa đem lại nguồn lợi về mọi mặt, Việt Nam cần có thêm nhiều cú hích.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng tham dự sự kiện quảng bá văn hóa Việt Nam trong khuôn khổ Những ngày văn hóa Việt Nam tại Liên bang Nga năm 2024
Trăn trở với câu chuyện xuất khẩu văn hóa, TS Nguyễn Phương Hòa, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ VHTTDL) nhận định, hiện nay có một thực tế là các doanh nghiệp, nhà sản xuất, nghệ sĩ... dù có sản phẩm chất lượng nhưng vẫn phải chịu cảnh đơn độc khi tìm đường ra thị trường quốc tế.
Đã đến lúc, cần cách tiếp cận mới để thúc đẩy xuất khẩu văn hóa, mang lại nguồn thu và gia tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm mang thương hiệu quốc gia.
P.V: Nhìn vào bức tranh tổng thể, bà đánh giá như thế nào về thực trạng xuất khẩu văn hóa của Việt Nam hiện nay?
- Cục trưởng Nguyễn Phương Hòa: Trước hết, cần phải mở rộng cách nhìn nhận rằng, xuất khẩu văn hóa không chỉ đem lại nguồn lợi lớn về kinh tế mà còn góp phần mạnh mẽ vào củng cố hệ giá trị, khẳng định quan điểm, chính sách phát triển văn hóa, công nghiệp văn hóa (CNVH) của Việt Nam và là con đường quảng bá hiệu quả hình ảnh quốc gia ra thế giới.
Nhận thức rõ vấn đề này, trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều quyết sách quan trọng để tạo động lực cho phát triển CNVH, từng bước tiến tới xuất khẩu văn hóa.
Đặc biệt, tháng 12.2023, lần đầu tiên Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành CNVH Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ chủ trì đã tạo nên một cú hích lớn, nâng cao nhận thức cho các ngành, địa phương và toàn xã hội về vai trò của các ngành CNVH đối với sự phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của các ngành CNVH theo xu hướng của thế giới và tạo được bước đột phá trong thời gian tới, chúng ta đang tiếp tục xây dựng Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm năm 2045, có sự gắn kết chặt chẽ giữa việc phát triển các ngành CNVH trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh việc nỗ lực khơi thông nguồn lực từ hoàn thiện thể chế, chính sách, sự “nhập cuộc” tích cực của đội ngũ các doanh nghiệp, nhà sản xuất, nghệ sĩ..., hiện cũng đang hình thành được trào lưu quảng bá, đưa sản phẩm văn hóa Việt Nam ra thế giới. Điểm qua một số “mảng màu” trong bức tranh tổng thể có thể thấy, Việt Nam đang có đầy đủ phương tiện để mở rộng cánh cửa xuất khẩu văn hóa.
Vấn đề vướng mắc nhất hiện nay là chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng cho các doanh nghiệp. Với Luật Thuế giá trị gia tăng mới, hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, nhập khẩu, phát hành và chiếu phim thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 10% từ ngày 1.7.2025, trước đây là 5%. Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa đa phần có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, rất mong manh, “dễ vỡ”. Nếu không có những chính sách ưu đãi, chúng ta sẽ rơi vào cảnh đi ngược lại với thực tiễn ở nhiều quốc gia ngày càng mở rộng cơ chế hỗ trợ cho các tổ chức văn hóa, nghệ thuật, các doanh nghiệp vừa và nhỏ… |
(TS NGUYỄN PHƯƠNG HÒA, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế) |
Nỗ lực hoàn thiện thể chế, chính sách, cùng với đó là sự nhiệt huyết của đội ngũ những nhà sản xuất, nghệ sĩ, thế nhưng vì sao xuất khẩu văn hóa của Việt Nam vẫn đang dừng lại ở sự manh mún, nhỏ lẻ, thưa bà?
- Cần thẳng thắn nhìn nhận, chúng ta chỉ mới làm tốt hơn so với chính chúng ta của trước đây. Dù rất cố gắng nhưng Việt Nam vẫn chưa thể xác lập thương hiệu cho sản phẩm, dịch vụ CNVH trên thị trường quốc tế.
Hiện nay, việc định vị thương hiệu phần lớn đang trông chờ vào sự vận động của các tổ chức tư nhân và cá nhân đơn lẻ. Do đó, để cạnh tranh được với các nước đã là cả một vấn đề.
Như ở Hàn Quốc, để phát triển được một nền CNVH mạnh mẽ như hiện nay với những sản phẩm văn hóa xuất khẩu được, họ phải trải qua một chặng đường dài với các kế hoạch, chính sách phát triển văn hóa được thiết kế ngay từ năm 1973.
Họ có cả một quy trình bài bản để đào tạo thần tượng, một trong những yếu tố cốt lõi để làm nên thương hiệu cho các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của xứ sở kim chi hiện nay. Đây là điều chúng ta chưa làm được.
Một vấn đề khác cũng khiến quá trình xuất khẩu văn hóa của Việt Nam gặp khó khăn là còn những khoảng trống về hợp tác công - tư. Đơn cử, các đạo diễn trẻ hiện nay chưa nhận được sự hỗ trợ khi mang phim đi các “chợ” phim, LHP; chịu cảnh tự làm phim, tự gửi đi.
Chúng ta cũng chưa có nguồn lực để tổ chức những gian hàng giới thiệu điện ảnh Việt Nam tại các sự kiện lớn của điện ảnh thế giới nên việc tìm kiếm cơ hội hợp tác cũng gặp phải hạn chế. Không chỉ trong lĩnh vực điện ảnh mà cả ở lĩnh vực âm nhạc, văn học cũng đang tồn tại tình trạng tương tự.
Việc chưa có chính sách ưu đãi về thuế, phí, thủ tục đã khiến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hiện nay chưa thể chi mạnh tay cho cuộc đua xuất khẩu văn hóa.
Ngoài ra, chúng ta cũng đang gặp khó khăn về hạ tầng và kỹ năng căn bản trong phát triển dịch vụ văn hóa sáng tạo. Đây chính là những điểm cần quan tâm khi phát triển thị trường văn hóa, định hướng xuất khẩu trong tương lai.
Cần thêm những chính sách đặc thù cùng chiến lược bài bản để đưa văn hóa, nghệ thuật Việt Nam tiếp cận với các thị trường quốc tế. Ảnh: BTC EXPO DUBAI 2020
Nhiều ý kiến cho rằng, còn nhiều “điểm nghẽn” về cơ chế chính sách để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu văn hóa. Vậy giải pháp để tháo gỡ là gì, thưa Cục trưởng?
- Bộ Chính trị đã nêu rõ định hướng về việc phải nhìn nhận kinh tế tư nhân là thành phần quan trọng, động lực để phát triển kinh tế. Trong lĩnh vực văn hóa cũng vậy, nhất là trong tiếp cận thị trường để phát triển CNVH, phải tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý “kiến tạo cho sự phát triển”, tạo thông thoáng để các nhà sản xuất, doanh nghiệp, nghệ sĩ... có thể tự do sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật.
Vấn đề vướng mắc nhất hiện nay là chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng cho các doanh nghiệp. Với Luật Thuế giá trị gia tăng mới, hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, nhập khẩu, phát hành và chiếu phim thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 10% từ ngày 1.7.2025, trước đây là 5%.
Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa đa phần có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, rất mong manh, “dễ vỡ”. Nếu không có những chính sách ưu đãi, chúng ta sẽ rơi vào cảnh đi ngược lại với thực tiễn ở nhiều quốc gia ngày càng mở rộng cơ chế hỗ trợ cho các tổ chức văn hóa, nghệ thuật, các doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Trong thời gian tới, các cơ quan quản lý cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ sở hữu trí tuệ, nhưng đồng thời cũng tạo môi trường thuận lợi nhằm giải phóng sức sáng tạo, tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo, thử nghiệm, cung cấp các biện pháp ưu đãi về thuế, tín dụng…
Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ tài chính, có chính sách ưu đãi đối với các chương trình nghiên cứu và phát triển sản phẩm trong các lĩnh vực của văn hóa sáng tạo.
Việc định vị thương hiệu cho văn hóa Việt Nam, dần nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường văn hóa, nghệ thuật toàn cầu vẫn đang là mục tiêu được hướng đến. Bà có đề xuất giải pháp hỗ trợ đồng bộ gì để chúng ta vững vàng trên hành trình hướng ra biển lớn?
- Văn hóa được coi là trụ cột của phát triển bền vững. Việc phát triển các ngành CNVH và sáng tạo là một xu hướng của thế giới, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững vì thế hệ tương lai.
Vì vậy, các chính sách, chiến lược trong thời gian tới cần đặt văn hóa trong tổng thể hệ thống chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đầu tư xứng đáng cho văn hóa và từng bước hướng đến xuất khẩu văn hóa.
Trong đó, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng khung khổ pháp lý rõ ràng, minh bạch để hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà sản xuất, nghệ sĩ phát huy sự sáng tạo và có điều kiện thuận lợi trong kinh doanh về văn hóa; hỗ trợ doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp vừa và nhỏ về thủ tục, kinh phí quảng bá sản phẩm văn hóa, nghệ thuật tại các “sân chơi” lớn.
Trong đào tạo nguồn nhân lực, các cơ sở đào tạo của Việt Nam cần cải tiến chương trình, cập nhật giáo trình, liên kết và hợp tác quốc tế để có được quy trình bài bản như ở các nước phát triển. Hiện nay, đang có xu hướng các bạn trẻ của Việt Nam lựa chọn làm thực tập sinh tại Trung Quốc, Hàn Quốc...
Điều này đặt ra bài toán về quy trình đào tạo nhân lực lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ở trong nước. Phải có nhân lực chất lượng cao thì chúng ta mới có thể kỳ vọng vào sự khởi sắc trong sáng tạo, phát triển sản phẩm để xuất khẩu văn hóa.
Khi có được sản phẩm thì phải có giải pháp, chiến lược bài bản trong tiếp cận thị trường quốc tế. Cần duy trì sự hiện diện của văn hóa Việt Nam tại các hoạt động giao lưu quốc tế, đặc biệt tại các sự kiện văn hóa, nghệ thuật uy tín toàn cầu cùng với các sản phẩm chất lượng cao.
Khi các đối tác quốc tế nhận thấy tiềm năng phát triển sản phẩm văn hóa của Việt Nam, chúng ta cũng sẽ dễ dàng nhận được những cái gật đầu, hợp tác đưa sản phẩm văn hóa của Việt Nam vươn “biển lớn”. Quảng bá cũng là cách để khách hàng “chịu chi” cho những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam.
Cần phát huy sức mạnh của các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, với vai trò là cánh tay nối dài. Khó khăn lớn nhất với các trung tâm hiện nay là thiếu thốn cả về nhân lực, vật lực.
Với hoạt động của các trung tâm văn hóa nước ngoài tại Việt Nam, họ đều có chiến lược bài bản, đầu tư mạnh từ trong nước để đưa tinh hoa văn hóa của mình đi quảng bá, phát triển sản phẩm và xuất khẩu.
Đây là điều chúng ta chưa làm được. Khi có nguồn lực từ Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035, chúng tôi hy vọng nguồn lực sẽ được phân bổ hợp lý để giải quyết những vấn đề này.
Xin cảm ơn bà!
Nguồn: baovanhoa.vn
Bình luận
Bài viết cùng chuyên mục