Chính sách bảo tồn nghệ thuật truyền thống: Cần đổi mới để không lỗi nhịp thời đại

Ngày đăng: 20/03/2025 Lượt xem: 205
Mặc định Cỡ chữ

Trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật biểu diễn truyền thống, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách thực thi hiệu quả, có vai trò to lớn.

Điều này thể hiện ở hàng loạt văn bản về luật, nghị định, quyết định, quy định, quy hoạch, chiến lược, chương trình… Tuy nhiên, chính sách còn tồn tại không ít bất cập đòi hỏi cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.

Cần đổi mới để không lỗi nhịp thời đại - ảnh 1

Chương trình nghệ thuật quảng bá văn hóa, lịch sử, truyền thống và bản sắc dân tộc “Việt Nam - Huyền sử diễn ca: Thăng Long - Tứ trấn”

 Thiếu công chúng, yếu chính sách, khó bảo tồn

Điều bất cập lớn nhất hiện nay là thiếu vắng chính sách đầu tư, quan tâm phát triển công chúng của nghệ thuật truyền thống. Có thể khẳng định, nghệ thuật biểu diễn truyền thống không thể thiếu công chúng, nhất là công chúng trẻ.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, công chúng bị phân hóa sâu sắc về vùng miền, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế, thời gian rảnh rỗi…; cùng với đó là ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài, quay lưng và xa lạ với văn hóa dân tộc. Điều này làm nghệ thuật biểu diễn truyền thống bị co hẹp phạm vi tồn tại.

Một thực tế khác là hiện nay chúng ta đang thiếu định hướng bảo tồn đúng cách. Các chính sách đưa ra chủ yếu đều tập trung vào “bảo tồn như thế nào?”, nhưng lại thiếu nội dung xác định “bảo tồn cái gì?”.

Điều này dẫn đến tình trạng nghệ thuật truyền thống được bảo tồn không đúng cách. Những vở diễn đã được chỉnh lý được coi là tác phẩm truyền thống cần giữ gìn, chứ không phải là tác phẩm gốc tồn tại trước đó.

Không ít điệu múa dân gian đã được biên đạo mới, mất đi sự toàn vẹn của di sản và công chúng cũng không biết đó là điệu múa cổ hay tân. Điều này dẫn đến sự sai lệch đối tượng cần bảo tồn và làm mất đi giá trị của di sản đích thực.

Một vấn đề nữa là việc bảo tồn và quan niệm bảo tồn rất khác nhau, dẫn tới sự bất bình đẳng tồn tại nhiều năm qua. Chính sách của Nhà nước được ban hành, nhưng không phải địa phương nào cũng áp dụng triển khai đúng theo quy định.

Bên cạnh đó, một số địa phương xây dựng chính sách hỗ trợ riêng, nhưng một số nơi lại không có. Ngay cả các địa phương có chính sách hỗ trợ riêng thì mức hỗ trợ lại có sự khác nhau, thậm chí chênh lệch khá lớn.

Chưa kể chính sách ấy chỉ áp dụng cho nghệ nhân thực hành thuộc 1 hoặc 2 thể loại được xếp vào Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của địa phương, chứ không áp dụng cho tất cả.

Hơn nữa, Luật Di sản văn hóa chỉ đưa ra chính sách hỗ trợ đối với Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú, chứ không đưa ra chính sách hỗ trợ đối với các Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú hoạt động chuyên nghiệp.

Chế độ, chính sách đãi ngộ nghệ nhân, nghệ sĩ và lớp trẻ còn rất hạn chế. Còn đối với nghệ sĩ biểu diễn nghệ thuật truyền thống chuyên nghiệp, mức lương và các chế độ phụ cấp cho việc luyện tập và biểu diễn tuy đã được nâng lên, nhưng vẫn còn thấp, không có cơ chế đặc thù đối với các nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống vốn kén khán giả, dễ bị tổn thương trước tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Vì thế, không có tác dụng lớn để thu hút, lôi cuốn những người có tài năng đi theo nghề; không kích thích, động viên người nghệ sĩ toàn tâm, toàn ý cho công việc sáng tạo nghệ thuật. Mức lương thấp đi kèm với chế độ “cào bằng”, biểu diễn thì vắng khán giả, doanh thu ít đã làm cho đời sống của người nghệ sĩ gặp rất nhiều khó khăn…

Việc sáp nhập giúp bộ máy gọn nhẹ, tinh giản biên chế, nhưng lại làm nghệ thuật truyền thống bị mai một. Nghị quyết số 19-NQ/ TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập với chủ trương “sắp xếp lại, nâng cao năng lực các đơn vị nghệ thuật biểu diễn công lập...

Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ giữ lại một đoàn nghệ thuật công lập truyền thống tiêu biểu của địa phương. Đối với các đơn vị nghệ thuật khác chuyển sang hình thức ngoài công lập.

Hợp nhất trung tâm văn hóa và đoàn nghệ thuật cấp tỉnh thành một đầu mối được triển khai trong thực tế chưa phù hợp, đã dẫn đến tình trạng: Cùng thực hiện chủ trương, chính sách, nhưng các địa phương lại có cách thực hiện khác nhau, gây ra những xáo trộn về nhân sự; bất ổn về tâm lý nghệ sĩ; nghệ sĩ nhiều tuổi, không còn thanh sắc, nhưng còn trong biên chế thì ở lại; nghệ sĩ trẻ tài năng nhưng chỉ có hợp đồng ngắn hạn thì ra đi; hầu hết các tỉnh, thành phố không còn đơn vị biểu diễn nghệ thuật chuyên sâu một thể loại độc lập, mà tập hợp nhiều thể loại, loại hình khác nhau, hoạt động dần bị “nghiệp dư hóa”, nghệ sĩ phải đảm đương những phần việc không chuyên, từ đó mất mát, tổn thất lớn đội ngũ kế cận, chất lượng nghệ thuật bị giảm sút.

Bên cạnh đó, chính sách tự chủ, thực hiện công nghiệp văn hóa trong cơ chế thị trường khiến công tác bảo tồn bị coi nhẹ và giá trị di sản bị phá vỡ, mai một.

Cần đổi mới chính sách đầu tư cho nghệ thuật

Các đơn vị biểu diễn nghệ thuật truyền thống công lập được Nhà nước bao cấp thì phục vụ chính trị là chủ yếu. Tuy nhiên, trên thực tế, các đơn vị này thực hiện chồng chéo nhiều nhiệm vụ khác nữa: Vừa phải đảm đương trách nhiệm xã hội trong việc nhận thức, khám phá, giải phẫu hiện thực đời sống; vừa phải lo bảo tồn và phát huy di sản truyền thống; và đặc biệt, vừa phải lo tự chủ, làm kinh tế để giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước và đảm bảo đời sống hằng ngày.

Điều này đầy mâu thuẫn vì kinh phí của Nhà nước được đầu tư chỉ tập trung vào dàn dựng chương trình, vở diễn mới phục vụ chính trị, chứ không có kinh phí cho đào tạo, bảo tồn hay quảng cáo, marketing.

Chưa kể, áp lực cơ chế tự chủ về kinh tế đã khiến các đơn vị biểu diễn nghệ thuật truyền thống không còn mặn mà đầu tư cho công tác bảo tồn vì không có khán giả và doanh thu.

Vì vậy, hiện nay, trong kịch mục của đa số các đơn vị đã vắng bóng dần những tích cổ. Nhiều đơn vị không diễn được trọn một vở, mà chỉ còn có thể diễn được một số trích đoạn.

Bên cạnh đó, phần lớn diễn viên trẻ nắm được các làn điệu cổ đặc trưng của thể loại ngày càng hiếm hoi, dẫn đến số lượng lớn làn điệu ngày càng có nguy cơ mai một. Nhiều nơi, vì mục đích phục vụ du lịch, các tiết mục truyền thống bị biên đạo, chỉnh sửa, cắt gọt cho phù hợp với thời lượng và nhu cầu của du khách, dẫn đến bị mất đi sự nguyên vẹn của di sản.

Có thể nói, để khắc phục những thực trạng bảo tồn và phát huy nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam hiện nay là điều không đơn giản nhưng cần phải được thực hiện, vì đây là vấn đề thiết thực, cấp bách đối với sự phát triển của đất nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa là lĩnh vực dễ bị tổn thương, trong đó bản sắc văn hóa, văn hóa truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả. Cho nên, đặt vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa, hay phát huy các giá trị của nghệ thuật truyền thống đã định hình nên diện mạo văn hóa và tinh thần dân tộc, là quan trọng và cấp bách, đòi hỏi chính sách Nhà nước điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. 

TS.Trần Thị Minh Thu

Nguồn: baovanhoa.vn

Bình luận